Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân

Phạm Tín An Ninh

Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư tại Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng gía, nhưng lại rất đẹp vào ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong “Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.
Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học , cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo sau tôi những buổi học tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính Biệt Động Quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giầy saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa trải qua khói lửa Mậu Thân.
Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.
Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên. Lê Cao Nguyên.
Anh về thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một “lỗ tai nhỏ” như ba nó.
Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về với đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh mỗi ngày trong quân y viện.
Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với Anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau.
Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là “may mà có anh đời còn dễ thương”. Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ!
Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc. Một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, anh hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.
Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng gĩa từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chủng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là ngoài lực lượng xung kích mở đường, một số đơn vị Biệt Động Quân còn được chỉ định đi sau, ngăn chặn địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái.
Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch qúa đông, mà bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đến gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn.
Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con suối nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt qúa, tôi ngủ vùi một giấc, thức giấc thì trời vừa sáng… Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp. Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch.
Vừa rời đoàn người chừng vài phút thì đạn pháo thi nhau rớt xuống. Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng có một số người đã chết. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính Biệt Động Quân một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: “Đạp lên mà đi!”. Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận được cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa.
Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi… Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp.
Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn người. Tôi hình dung cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Tôi nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng
tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến. Và cũng không ngờ đó là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi.
Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng là lần cuối tôi chứng kiến những người lính Biệt Động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét “Biệt Động Quân Sát” vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ,
tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác. Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ để che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.
Tiếp tục di chuyển từng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về bên hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi thấy mấy người lính BĐQ nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc.
Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nửa thì chúng tôi bị một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẵn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo và tiếng nói rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).
Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn: Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.
Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm để mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà chăm sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.
Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người còn vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ bị lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi gặp được anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.
Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.
Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân cây. Lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành những âm thanh não nùng, xé ruột.
Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương, và một đứa em trai của tôi đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng quê Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.
Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây vào giữa mùa xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.
Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương , còn có vợ chồng cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn mang tên “thị xã”. Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.
Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:
Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tin luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hợp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với gía rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M’dhur.
Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới 20 cây số. Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.
Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người
chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là anh đàn ông người Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi…Khi Anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.
Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sống mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc mầu nâu sậm như mầu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi chợt nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba của nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra và nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi báo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa và nói vào tai chị:
– Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?
Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:
– Thằng Nguyên? Chả lẽ là thằng cu Nguyên?
Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:
– Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?
Anh người Thượng lắc đầu.
– Tao là thằng Ksor Tlang.
Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nửa, rồi buột miệng:
– Mày bắt cái con gà nhiều tiền qúa!
Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người có tai mắt ờ đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.
Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi và anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.
– Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì?
– Tôi có cha mẹ. Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu
– Có anh em không?
– Không.
– Anh có nhớ ngày sinh không?
– Không.
(Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ đi tìm khai sinh sau)
– Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?
– Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
– Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?
(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)
– Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.
Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:
– Cha mẹ anh đang ở đâu?
– Buôn Ban Ma Dek.
(Gã công an nhìn tôi, bảo buôn Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)
– Anh ở chung với cha mẹ anh?
– Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
– Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.
Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi giùm chúng tôi bảy cái xe ôm.
Cha mẹ của anh bán gà đã khá gìa, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn. Lúc đầu, ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực.
– Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lết vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé.
Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.
– Rồi xác của người lính đó ở đâu? Tôi hỏi.
Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:
– Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.
Chúng tôi theo sau hai người công an dìu ông gìa đi về phía khu rừng.
Tôi khóc ngất khi nhìn thấy ngôi mộ lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng qùy xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay đang nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.
Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông gìa mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà gìa, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông gìa một mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể nào sống xa rừng cũng như loài cá không thể nào sống mà không có nước.
Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi tính xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng ở nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và chắc có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất quanh đây. Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi và hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.
Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi trả công cho hai gã công an!
Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó qùy bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình. Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày nó mới lên bốn tuổi.
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?

Phạm Tín An Ninh
(Phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)

CÙNG MỘT GIỌT LỆ

    * Cẫm Long

 

 Thức giấc vào nữa đêm, Hân cố dỗ giấc ngủ lại nhưng chẳng được. Mỡ nhạc classic cũng vô ích. Vặn   đèn vồ lấy cuốn sách đọc hết cả vài chục trang cũng không thể nào ngủ được. Bây giờ thì H. cũng chẳng cần dỗ giấc ngủ nữa, thức vào giữa khuya cũng là một cái thú, thú suy nghĩ. Sau bảy năm mài thủng đít ghế nhà trường, giờ đây H. đã có mãnh bằng trong tay, cái trước tiên H. được, cái đó là cha mẹ vui lòng , một phần nào báo hiếu , báo hiếu vì H.đã nghe lời khuyên của ba mẹ, nhất là ba H.. Nhớ những   năm đầu tiên đến Mỹ, xa lạ quá, đủ thứ xa lạ, nhất là ngôn ngữ, có những lúc nản chí H. muốn buông tay, thả trôi…. Nhưng ông già cứ khuyên mãi, những lời khuyên của ông xuất phát từ lòng yêu thương, từ trái tim của người cha, những lời khuyên H. phải học, phải cố gắng, phải vượt qua những nghịch cảnh để mai << thành người >>, H.  đã cãm nhận được trong những lời khuyên ấy là những ước ao của ba Hân, H. cũng  cãm nhận được từ lời nói của ông như một lệnh truyền chắc nịch và, Hân đã không bỏ cuộc.

         Giờ đây H. đã thực sự bước vào ngưỡng cửa của cuộc sống, lao vào sa mạc mà hành trang là bảy năm qua- Hân biết không dể. Trong sa mạc đó ,trong cái đường đời bao la H.còn thiếu nhiều lắm – Không gì tuyệt đối (H.lý luận cần nhất là sự kiên nhẫn ( như ba mình đã nói với mình nhìều lần ) . Hơn một tháng nay H. đã đến  gỏ cửa nhiều công ty để nạp đơn xin việc trên  những bước đường đi; Một tự tin, một hồi hộp.. Tâm lý hỗn độn, nhiều cảm xúc, có phải vì vậy mà đêm nay H. thức giấc vào nữa đêm và không ngủ lại được ? Phải chăng sự lo lắng ? ?  và sự lo lắng như vậy có nên không ? Dale carnegie đã khuyên H. hồi chàng còn học lớp 12 << Cái lo lắng tốt nhất cho tương lai là hiện tại mình làm được những gì thì làm…. >>. Đúng như vậy. Bây giờ ,sau bảy năm một chút tương lai đã có- Nếu như mình buông trôi, mình không nghe ba khuyên bảo.. Thì bây giờ lo được gì ?  << không ai tắm hai lần trên một khúc sông >> một hiền triết thời cổ nói như vậy , bảy năm qua tại đất khách quê người, H. đã không để giòng nước chảy một cách vô ích trên khúc sông đó. Hân  đã bám chặc lấy thời gian ( nhờ ba H. ) Một thành công của bước đầu nhưng, giòng sông vẫn chảy và, khúc sông vẫn còn đó. Thật là khó biết được. Bởi trong cái nóng bỏng của sa mạc có rất nhiều cái mà H. chưa biết , chưa nghe nói tới ở học đường << Nhưng dù sao mình cũng đã có sự chuẩn bị >> Hân cắt  đứt suy nghĩ ở đó.

           Nhìn đồng hồ đã hơn 8 giờ sáng. Thật là mau, H mênh man trong ý nghĩ hơn 5 tiếng đồng hồ- Giờ này thì ba mẹ đã đi làm, cuộc sống là vậy, ông bà vẫn phải vất vả. Bảy năm trôi qua H. không có thời giờ để nghĩ nhiều về cuộc sống của cha mẹ, còn ngồi ghế nhà trường nên càng lo lắng, trong lúc này ,lúc còn ngơi nghĩ ( cứ gọi như vậy đi ) lúc còn chạy rong ngoài đường để đi đến các công ty đút đơn và mãnh bằng của mình, tuy lo lắng nhưng có phần nhẹ nhàng hơn lúc còn đi học.Và đây cũng là lúc nhớ đến những điều đáng nhớ, một trong những điều ấy là cuộc sống của cha mẹ.  TRong những tháng ngày này H.  mới có dịp nhìn kỷ khuôn mặt của ba, mẹ. Mái tóc, nếp nhăn…. Cho biết những băng khoăn, suy nghĩ của ông, bà,mà trong đó có sự lo lắng cho tương lai H.,Tuổi năm cứ phủ thêm và, cứ như vậy những thíng, năm đi qua cùng lấy đi sức khỏe của ba,mẹ còn mình được trưởng thành hơn, chin chắn hơn….. Cuộc sống là thế đó, định luật của tọa hóa- Con người phải chấp nhận nhưng, trong những nhọc nhằn đó con người vẫn có cái hạnh phúc riêng do chính mình tạo dựng , do ý chí, suy nghĩ .. trong chiều hướng vương lên lập thành . Như gia đình H bây giờ một chút hạnh phúc đang có ,cái hạnh phúc mà H đã đem đến cho ba ,mẹ bằng những co ágắng trong những năm tháng qua để có mãnh bằng ngày hôm nay. Trong cái hạnh phúc đó ,người mẹ sung sướng , mãn nguyện và, người cha tự hào , đúng như vậy ( H.suy nghĩ ) Chính ông là động cơ chính để thúc  đẩy H trong những ngày đầu đến Mỹ.Điều này khiến H. nhớ lại lời mẹ nói với H. khi h.học lớp 11 lú cò ở quê nhà << Ba con có  nhiều bản  lĩnh, chịu đựng.. Ba là một  sĩ quan Q.L.V.N.C.H. >>

–           << C ám ơn Thượng Đế, cám ơn ba, mẹ, cám ơn  học đường ở xứ sở tự do đã nuôi dưỡng mình >> .

        Ngày hôm nay, H không có chương trình đi đâu cả, một ngày hoàn toàn ở trong nhà để nghĩ ngơi . Từ trong phòng ngủ, H bước ra phòng khách  kéo màn  cửa sổ_ Ngoài trời nắng đẹp << Một ngày thật đẹp >> H. buộc miệng nói như vậy va øđẩy cửa bước ra ngoài để tận hưởng cái  đẹp của buổi sáng hôm nay mà H ít có dịp bắt gặp. Trên bải cỏ những hạt sương long lanh vì được những tia nắng soi rọi, những hạt sương tronø xoe,trông như những đôi mắt đẹp và, hình như những đôi mắt ấy chấp chứa một nỗi buồn vô tận, cái buồn xa xăm , xa xăm ,xa lắc như từ khi có nó, từ cái ngày khai thiên lập địa, ngày tổ tông con người phạm tội và con người đã có hận thù ,chiến tranh V.V… Suy nghĩ như vậy để rồi H. nói << Một chút triết lý, một chút lãng mạng của buổi sáng đẹp >>. Hân mĩm cười, chàng hít thou không khí trong mát của một ngày hoàn toàn không bận bịu với bất cứ một chương trình nào cả.

         Hân bước vào nhà, H. ngồi vào sofa và mỡ ti vi để xem chương trình mà H.thích . H. Không thể tin vào mắt mình được, những hình ảnh cùng lời nói của người xướng ngôn- Bọn không tặc cưỡng đoạt  máy bay dân sự đâm vào 2 cao ốc song đôi ở Nữu-Ước . Những kẻ khủng bố đã làm điều đó,H. không nghe lầm ,  là sự thật trước mắt đã xảy ra cách đây hơn 2 tiếng đồng hồ. Cặp mắt của H dán chặt vào màn ảnh t.v- Những cuộn khói bốc cao- tòa nhà sụp đổ, những tiếng la ó , hơn 50 ngàn người làm việc trong đó. Kinh hoàng ! H. không muốn nhì thấy những hình ảnh đó nữa, H tắt t.v và buông người  nằm trên sofa, lúc bấy giờ tâm trí H. lộn xộn. Có vị mặn trên môi, vị mặn đó đã đưa H về với thựïc tại , với suy nghĩ_ Hân biết mình đã khóc_ giọt nước mắt đã rơi từ lúc nào ,H không thể xác định được_ có thể ngay từ lúc ban đầu,có thể từ lúc chàng nằm xuống sofa ??? Tâm hồn của H đã cảm nhận được nỗi đau thương từ hai cao ốc- Vị mặn của máu và nước mắt giống nhau, cả hai xuất phát từ đau thương mà ra.

         Hân tự hỏi : << Có lần nào khác mình đã khóc ? ? >> Hân không nhớ được trong lúc này, nhưng có điều chắc chắn là chưa bao giờ nhận lãnh mạnh mẻ sự đau thương như ngày hôm nay. Đã từ lâu ba H đã kể cho H nghe về tết Mậu Thân ( 1968) V. C sát hại tập thể những người dân lương thiện ở Huế, H không cảm nhận được tất cả những đau thương đó, mặc dầu trên khóe mắt của ba H long lanh những giọt nước mắt_ Hân biết ông đang xúc động mạnh, ông đang kinh hòang và trong đôi mắt của ông hiện lên sự giận dữ- ông nói: << Con có biết không ? đó là những người dân vô tội, họ không có một mãnh sắt nhỏ trong tay để tự vệ, tại sao chủ nghĩa đó không để họ yên ổn, nếu Cộng sản giết những người như ba,  thì không gì đáng nói , những người bị sát hại là những người vô tội con ạ!… >> Hân chỉ thương ba mình conø câu chuyện ông vừa kể cũng giống như nhiều chuyện kể  về cuộc chiến thế giới thứ hai do phát xít Đức gây ra và giết hại biết bao người dân Do Thái… H. không chú tâm mấy. Bây giờ đây ,trong lúc này những gì H đã nghe ba kể qua, những hình ảnh đó đang hiện dần trước mắt, Có một lần khi  lên năm tuổi H hỏi mẹ.

–           Anh hùng là gì hả mẹ?

–           Anh hùng là người dám hy sinh mình để bảo vệ cái đẹp, cái tốt…

–           Như ai hả mẹ ?

–           Rất nhiều trong lịch sữ nước ta con ạ như: Hai bà Trưng, vua Quang Trung, lê lợi, Nguyễng Thái Học, V.V.….và, gần nhất với con là ba của con,các bạn bè của ba con, những người lính Việt-Nam Cộng-Hòa.

–           Ba con là anh hùng hả mẹ ? Thật không ?

–           Thật chứ, ba con cũng như các chú, các bác không sợ chết, Họ gia nhập vào quân đội để bảo vệ tự do, bảo vệ cái đẹp ,cái hay, bảo vệ sự thật…

–           Con chưa thấy ba con, khi nào con gặp  ba hả mẹ ?

–           Ừ -tháng sau mẹ dẫn con đi gặp ba

–           Và H.cùng mẹ với những chặn đường dài gian khổ để đến trại tập trung ,nơi có ba H ở đó, H mong gặp vị anh hùng như mẹ kể.Trên bước đường đi dù vất vả nhưng H cố gắng tưởng tượng ra một vị anh hùng , khi gặp mặt ba H thấy ba không giống vị anh hùng chút nào cả vì, thân hình ba tìu tuỵ, khuông mặt cháy nắng cungø  bộ quần áo với nhiều miếng vá.

–           Ba con đó! Hân rụt rè,chưa dám lại gần.Ba H đi vào trại tập trung lúc H mới 2 tuổi, còn quá nhỏ để nhận nhớ rỏ hình ảnh của người thân. Ba kéo H vào lòng , ve vuốt.,H còn nhớ ,nhớ rất rỏ khi ngước lên nhì ba, H thấy trong mắt ba có nước mắt, rồi H cuối xuống để theo đuổi ý nghĩ non nớt của mình. H cứ thắc mắt hòai, tại sao ba   cũng như những người bạn của ba là anh hùng lại khổ cực như vậy, tại sao lại bị tù……??? Nhiều câu thắc mắt trong đầu H lúc đó, trong lúc ba mẹ đang nói chuyện nên H không dám hỏi. Để rồi ba vuốt tóc H và nói: <<  Con về nhà nhớ ngoan và nghe lời mẹ >>.

–           Công an dẫn ba vào, mẹ và H đứng nhìn theo ba cho đến khi mất hút .

–           Trên đường đi về , H quên hết những gì đã nghĩ và định hỏi mẹ . Trẻ con là vậy, quên hết vì đọan đường quá gian nan, quên hết vì quá mệt.

        Cuộc sống cứ như vậy trôi qua, hằng ngày H đi học, thời gian làm cho H khôn thêm và có vóc dáng. Trong nhà lại có ba, thỉnh thỏang H đưọc nghe ba kể những câu chuyện về cuộc sống trước đây ( trước 1975 ) về thời trai trẻ của ba cũng như những lớp người cùng thời… Ba H cũng nói về sự khác biệt giữa hai xã hội. Một trước 75 ở miền Nam , một là xã hội bây giờ H đang sống.. Tất cả những điều đó không để H chú ý ,hơn thế nữa H không thể nào phân biệt được . Ứơc mong của H. là vài năm nữa H. bước vào đại học để có tương lai mà H. đang vẽ trong đầu.

         Những gì chờ đợi , rồi cũng sẽ đến, 12 năm sách vở, H.rất tự tin về sức học của mình, H. nạp đơn thi vào đại học, trước khi đi nạp đơn H. hớn hở nói với mẹ.

–           Con rất hy vọng  là con thi đậu vào nghành mà con thích, H chào ba mẹ ra khỏi nhà.

–           Trưa H về nhà với vẻ mặt buồn thiu, trên bàn ăn đã có ba, mẹ, H chào ba, mẹ và nói.

–           Họ không cho nạp đơn ba mẹ a.! Họ nói con thuộc thành phần chế độ cũ  ,Con không hiểu tại sao có sự phân biệt như vậy ?

–           Con ạ! Đã từ lâu ba có nói nhưng không nói nhiều với con, bởi vì con còn nhỏ, con không hiểu được. chưa va chạm thực tế với xã hội con đang sống. Con ngồi xuống đây ăn cơm, hôm nay ba sẽ không ra xưởng, ba sẽ nói với con về vấn đề này.Hân ngồi xuống bàn ăn, nhưng không tài nào có bửa ăn ngon được, mặc dù trên bàn có nhiều món ăn khoái khẩu, mà mẹ H. hôm nay rãnh rỗi nên nấu cho H. Sau bửa cơm trưa, ba H không nghĩ trưa, không ra xưỡng như ông đã nói, ông gọi H ra phòng khách và ôn tồn nói:

–           Xã hội con đang sống là  xã hội chủ nghĩa, xã hội này không phải là xã hội của những người như con, như ba, như hàng triệu người lương thiện khác , xã hội này không phải là một xã hội cho trí tuệ, cho sự vương lên hoặc cho sự công bình …..Xã hội mà con đang sống bây giờ chỉ có chổ cho những kẻ ngu muội, những  kẻ hamà hồ, vô luân_ những kẻ cầm quyền đã được uốn nén, nhồi nhét một chủ thuyết không có tình người, những người này họ bát  bỏ cũng như sợ hải trí tuệ và ngược lại trí tuệ loại bỏ xã hội này, trí và tri thức sẽ vùng dậy để đánh đỗ họ… Chính vì vậy họ phải tìm mọi cách để dẹp bỏ thành phần tốt, có tri thức trong xã hội họ đang cai trị. Con ạ !Những kẻ đang cầm quyền , đang điều khiển đất nước chúng ta đây là những kẻ tạo hóa sanh ra để bò, họ không  biết bay cao, là loài răùn đang nguyền rũa loài chim ưng . Ba không hận thù những kẻ ấy vì họ đã đối xữ quá tồi tệ với ba trong những tháng ngày ở trại tập trung, trong trại tù ấy những cực hình , những đày ải được áp dụng triệt để. Vâng, đúng với lương tâm của ba, sự thù hằøn không có … Người chiến thắng ( con cứ tạm gọi như vậy đi ) có quyền đối xữ  những gì họ muốn đối với kẻ thua trận. Nhưng ba thù hằn bởi vì những người đang cầm quyền đã đưa xã hội, đất nước, dân tộc càng ngày càng đi đến đốn mạt , chế độ mà chúng ta đang sống đang bóp chết mọi quyền tự do của con người,điển hình như con vừa gặp phải sáng nay. Không gì hơn được ,con đừng buồn- con phải kiên nhẫn, tự tin nơi mình , không chán nãn trước mọi tình huống, sự chán nãn dẫn con tới hư hỏng và, như vậy là đúng kế cuả những kẻ cầm quyền. Bây giờ con ở nhà phụ giúp ba ở xưởng một thời gian để khỏi nhàm chán , trong thời gian này con có thời giờ để đọc sách, đọc những cuốn sách cũ cuả ba còn dấu lại được để trau giồi thêm kiến thức. Con ạ ! chắc chắn rồi sẽ có lối thoát, những kẻ ác đều gặp hậu quả xấu. Hân im lặng lắng nghe, H. lắng nghe thật sự và, đã hiểu được phần nào xã hội mà H. đang sống.

        Ngày mà được mời đến gặp phái đòan Mỹ, đó là ngày vui- H.đã có lối thoát, nơi xứ sở mà H sắp đến, H sẽ được tự do học hành, được có quyền tạo dựng cho mình cuộc sống.   Những gì chờ đợi rồi cũng đến ,gia đình H đang ở phi trường Tân Sơn Nhất cùng với người thân, bạn bè… Không lâu chỉ hai tiếng đồng hồ nữa H. sẽ bỏ lại sau lưng tất cả, những kỹ niệm ở học đường cùng lũ bạn hay phá phách, giờ đây tụi nó đang quanh mình, đang băùt tay, tiễn đưa mình đi Mỹ- Một tâm trạng buồn vui lẫn lộn.

          Không biết khi nào gặp lại! Bạn bè nói như vậy….Không nấn ná được nữa, gia đình H đi vào phòng cách ly để làm thủ tục. Những cái vẫy tay, những lời nói với.. Những gương mặt thân thương mờ dần.. H đã xa hẳn.

         Gia đình Hân ngồi chờ chuyến bay, H. cảm thấy buồn thực sự, bạn bè ở ngoài kia, trong phút chốc H. sẽ bỏ lại tất cả_ Biết khi nào gặp lại ??? Những giọt nước mắt bắt đầu chảy, trong những giọt nước mắt đó những hình ảnh hằng ngày mà H bắt gặp trên đường đi từ nhà đến trường , những hình ảnh thương tâm ở đâu cũng có, nhan nhãn trên đường phố Sài-Gòn mà trước đây H không để ý đến, giờ đây lại hiện ra trước mắt H qua những giọt lệ_ Những em bé với thân hình gầy còm bệnh hoạn đào bới đống rác để lượm bao ny-lon, chai lọ…Những người tàn tật lê những bước chân mệt mõi khắp phố phường mong được bố thí_ Những công an với bộ đồ vàng đeo súng nhân danh << tự do, dân chủ, công lý của đảng >> hành hung,xua đuổi, tịch thu, bắt nhốt… những người nghèo khổ buôn ghánh ,bán bưng v.v.v.v    Bạn bè của H ở lại,không một tương lai cho cuộc sống, tuổi trẻ bị chôn vùi… H. chua xót, cái chua xót đến với H lần đầu tiên trong cuộc sống_ Sự chua xót này không riêng cho H mà cho bạn bè, người thân và dân Việt.

–           Hân nè! Tiếng gọi của ba cắt đứt giòng suy nghĩ của Hân, H khẻ: dạ!

–           Từ chổ chúng ta ngồi đến lòng máy bay chỉ có vài ba bước chân nữa, vài ba bước chân trên đất mẹ, trên quê hương yêu dấu.. Rồi con bỏ lại phía sau những cái đáng yêu cùng những cái đáng ghét_ Cái đáng yêu là: vùng đất đã ôm ấp rốn của con khi lọt lòng mẹ, cái quen thuộc của căn nhà, đường phố,bạn bè ,người dân khốn khổ ,nhiều lắm con ạ! Còn cái đáng ghét là cái chủ nghĩa xa lạ đối với dân mình , một chủ nghĩa chỉ làm giàu cho tần lớp đảng viên của họ_ Ba biết rằng con còn tiếc nuối, chính ba cũng vậy, không mấy ai hờ hững thản nhiên ra đi, từ giả nơi mình đã sống nhiều năm với nhiều kỹ niệm… Nhưng , cứ để những tiếc nuối đó đi, giả vờ như không có, có như vậy để mai này thoát khỏi nhọc nhằn_ Ba đau lòng hơn con cả trăm ngàn lần, tuổi trẻ của ba ở đó với nhiều mộng ước, tuổi trẻ của ba với nhiều khát khao.. Chiến tranh đến bao trùm chết chóc… Giờ đây nước mắt của ba hay những người cùng thế hệ đã cạn, mình phải đi con ạ! Mạnh dạn để đi…. << Tạm biệt ! tạm biệt tất cả..>> ba nói thầm trong miệng , H cuối đầu chậm bước.

          Những bước chân của Hân nặng trĩu như có ai keó lại, nhưng rồi có lúc nhẹ nhàng bước như có sự xô tới_ Hân lắng nghe quanh mình như có lời thì thầm âu yếm :<< Hãy đi đi con, đừng bao giờ chùn bước, Mẹ rất đau lòng nói với con điều đó, đi  để con khỏi thấy khổ đau dày xeó, để khỏi nghe những lời chướng tai của những kẻ cuồng ngông, đi đi để không còn thấy những em bé trần truồng không khoai cháo.. Nhiều lắm con ạ! Mẹ sẽ nói ,sẽ nói hết dù là đau lòng khi nhắc tới, nhưng nếu mẹ không nói chắc con chưa hiểu mấy, chưa hiểu hết về chủ nghĩa vô nhân, mẹ nói để cho con thấy nơi trường lớp con học toàn là phét lát, những bài học chính trị mỵ dân, mẹ nói để con hiểu thêm về những cô, thầy giáo miền ngoài không có năng lực , họ chỉ lặp lại như vẹt tập nói_ Mẹ nói để cho con ra đi không luyến tiếc, con đến xứ người làm rạng rỡ dân Lạc Việt và, cũng ở đó con không bị bị ngụp lặn trong bả phù hoa_ Con nên giữ những gì con đã có, đó cũng là một mớ hành trang, Hỡi con! Những lời mẹ nói sẽ thêm cho con nhiều ý-chí cùng năng lực để mai mốt trở về_ Đúng con ạ, đừng bao giờ quên điều đó_ Con về xây đắp quê hương, cho ông cha ta ngàn xưa yên giấc ngủ, con trở về mang cho dân tộc mình hai chữ TỰ-DO. Nhớ về để ông cha không hỗ thẹn, mẹ hy vọng rằng con về biến những đồng ruộng khô cằn, xơ xác trở nên trù phú, biến loài cỏ dại thành những cây lúa trĩu bông, những giòng sông bây giờ không có cá khi con về mang cá trở lại như xưa, chắc con đã thấy rừng già bây giờ xơ xác, mẹ hy vọng khi con về rừng xanh hùng vĩ để thú rừng có hổ nương thân _ Nhớ trở lại nhé con, những em bé trần truồng bên hố rác chờ đợïi con để được ấm thân, những cô gái trong lầu xanh muốn hoàn lương nhưng không có lối thoát, con về để người dân Việt khỏi phải << xuất khẩu >> sang nước khác làm thuê nhục nhả, con về để những cô gái mình không còn mơ ước lấy chồng dân khác, đừng quên lãng giáo đừơng đang có loài  quỹ sứ cầu nguyện, trong chùa có loài ma vương tụng niệm_ con về đi để ném những loại người đó vào địa ngục, để sau này phật về ,Chúa đến không oán trách dân ta . Thôi con đi đi Hân ạ! Vài bước nữa con đã thật sự rời xa; Đến xứ người nhớ nhìn mình trong gương con nhé ! Đầu đen, da vàng chính là con thuở ấy, thuở con đi Mẹ dặn con nhớ trở về. Hân con ! Ởû đời thường xảy ra may rủi, trong rủi có may và ngược lại, giờ đây trong lúc này, kỹ nguyên này dân Việt đang lưu lạc khắp nơi , rủi là mất nước, may là đến được xứ người để học những điều hay_ đừng để mất thời gian lưu lạc, con cố học để sau này giúp nước, nói như vậy không có nghĩa mẹ bảo con vọng ngoại_ chúng ta có suy nghĩ để loại bỏ và thâu nhận phải không con ? Trăm bề của cuộc sống, bao la cuả cuộc đời.. nếu con biết và khôn khéo thì con sẽ sàn lọc được biết bao nhiêu bụi qúi , sự góp nhặt đó sẽ cho con biết bao qúi giá . Con yêu dấu ! óc thực tế của xứ mà con sắp tới con nên học hỏi., con biết không ? câu chuyện của bá tước Monte Cristo  của Alexandre Dumas, Père cho chúng ta một bài học về sự học hỏi, trong tù ngục ,một chàng thanh niên bình thường ,những năm daiø trong ngục thất chàng đã học những điều hay nơi vị giáo sĩ… Chàng trốn ra khỏi tù mang theo những kiến thức học hỏi để trả nợ ân và oán, con ạ!<< Đại học chi đạo >>con nên nhớ như vậy, song với việc đó con nên bỏ bớt những quan niệm xưa cũ. Dân mình chịu ảnh hưởng của Trung-Hoa về quan niệm của cuộc sống , thuyết Lão Tữ, Lão Trang ăn sâu vào tầng lớp trứơc con không ít_ Mẹ muốn nói đến thuyết định mệnh _ Chính thuyết này làm cho một số người thuộc  cha ông của con gặp nhiều thất bại. Khi tin vào định mệnh thì chúng ta buông xuôi khi gặp nghịch cảnh, không muốn đương đầu với nghịch cảnh nữa vì định mệnh đã an bài và, không còn gì thắc mắc nữa, một học trò của Lão Tữ đã nói: <<.. người nào cũng sẽ được an bài theo cách thế riêng của người ấy..>> Lão tữ đưa ra thuyết này là để trị dân   : << Tâm hồn họ trống rỗng, nhưng bụng thì no, trí họ yếu kém nhưng xương cốt họ mạnh.. >> đó là chủ trương của ông . Thế hệ đi sau nhìn lớp trứơc để có kinh nghiệm, để tránh vết xe đổ… Chứ không phải để nguyền rũa, mạt sát những lớp tiên sinh , trừ phi những ai theo một chủ thuyết làm cho dân ngu, nước yếu để thủ lợi thì mới đáng nguyền rũa. Mẹ đã sống theo chiều dài của lịch sữ , đã 4000năm rồi, từ ngày tổ tiên con chia nhau đi lập nghiệp ( 50 lên núi, 50 xuống biển ) Với biết bao thăng trầm của từng giai đoạn nhưng có lẽ trong lúc này, lúc mà chủ nghĩa xa lạ đang ngự trị là lúc dân mình khổ nhất, là lúc tiếng khóc nhiều hơn tiếng cười, là lúc nỗi buồn đang ở khắp mọi nơi, là lúc MẸ rơi nhiều nước mắt….. Con, có thể những điều MẸ nói ngày hôm nay con chưa hiểu hết, bởi vì con chưa trưởng thành về tri thức nhưng sự ghi nhận chắc đã có, rồi một ngày nào đó tri thức con trưởng thành cộng với những điều gì tác động, lúc đó con sẽ hiểu rành mạch ,vì rằng : Ý thức siêu hình đã bùng dậy trong con, ý thức đó là một ý thức thức tĩnh, bừng dậy để tra hỏi về ý thức của cuộc đời, trong lúc này trí con bừng sáng, con sẽ cãm thông tất cả những gì mà con hờ hững bấy lâu nay. Thôi nhé! MẸ tạm biệt con và, con nhớ MẸ đang chờ con trở về.>>

 Cảnh tượng hải hùng trước mắt H.vừa qua, tác động mạnh vào tâm não , sự tác động đó đánh thức tìm thức của H, tất cả những gì liên quan đến đau thương, nhọc nhằn  bỗng dưng bùng dậy_ mênh mang với những khơi dậy đó cùng thảm trạng trước mắt làm trái tim đau nhói_ Nước mắt H chảy một lần nữa , chảy cho những thảm trạng quá khứ ( do ba H kể lại, do đất MẸ nhắn nhũ, do H thấy ) ở nơi sinh ra và chảy cho bây giờ, cho Nữu-Ước , Washington D.C. Trong lúc này H không nghĩ đến oán thù, Hân đang đặt  mình trong hoàn cảnh đó, trong sự đau đớn của những nạn nhân, trong sự tuyệt vọng trước cái chết_ H cũng đặt mình trong hoàn cảnh thân nhân của họ_ Như vậy để làm gì? Co ùnhư vậy H mới cảm nhận được những đau thương, mất mát.. to lớn. Trong cao ốc dưới những đống sắt vụn, con người đang nằm và chờ chết_ tuyệt vọng thực sự, có lẽ những suy nghĩ trong lúc này là nghĩ đến người thân, nghĩ đến cái dễ thương, nghĩ đến những dịu ngọt đã qua hơn là những điều đáng ghét _ chính vì thế nạn nhân gọi về nhà với những lời trìu mến << Anh yêu em ! em yêu anh! Con thương mẹ ! Mẹ thương con ! v.v và v.v >> Xót xa , chua xót thật sự , người thân sẽ làm gì trước những tình huống đó, người thân sẽ làm gì để níu kéo sự sống sắp ra đi ở người ruột thịt của mình  , sẽ phải làm gì để còn nghe được một lần nữa những lời nói yêu thương đó, sẽ phải làm gì với khả năng quá giới hạng trước một thảm trạng quá sức tưởng tượng- Dù là sao đi nữa cũng không ai ngôøi yên_ Hân nghĩ như vậy_ << Nếu là mình chắc chắc là mình có những hành động trong sự bất lực đó  >>.

         Sự đau đớn càng ngày càng gia tăng trong  H khi chàng nghĩ đến cách giải quyết vấn đề _<< con người hận thù và chiến tranh_ không làm sao tránh khỏi_ Giờ đây điều quan trọng là chúng ta làm được những gì thì làm để xoa dịu bớt những khổ đau của những thảm trạng vừa xảy ra >>./.      

   * Cẫm Long    

KHI NGƯỜI YÊU TÔI NỖI LOẠN

Chiến sự trong vùng đơn vị tôi hoạt động tương đối lắng dịu, gần nữa năm chưa thấy thành phố_ Nhân diệp L. về phép 3 ngày , tôi lên xin phép tiểu đoàn trưởng để về cùng L, cũng thật là khó lòng vì hai đại đội trưởng đi cùng lúc , nhưng cũng thử vì tình hình khá yên, chưa thấy triệu chứng nào sắp có quần thảo_ may thật !tiểu đoàn trưởng đồng ý vì có người thay thế đở, 3 ngày cũng chẳng lâu chi , mừng quá tôi rủ L ghé nhà tôi ở Tam Kỳ chơi một buổi, sau đó tôi theo L về Q. Ngãi , ít có khi nào đi cùng hai người nên thấy thú vị, có chuyện để nói với nhau trong lúc cà-phê cà pháo, hơn nữa L hứa sẽ giới thiệu cho một cô bé làm ở ngân hàng chung với bà chị của L .Ở rừng cũng đã lâu , thỉnh thoảng có về phép thì được 24 tiếng ,đủ để ghé thăm gia đình nghe bà già kể chuyện đời xưa và cũng nghe bà nói chuyện kiếm vợ cho thằng con trai đi lính xa nhà , cứ mỗi lần về là thêm một cô , tính ra cũng nhiều nhưng chưa gặp mặt, cô nào bà cũng nói <> , Không phải bà già phỉnh nhưng không có thì giờ để đi” coi mắt” hơn nữa hơi ngại những cô gái quen biết với gia đình, tôi thì còn quá trẻ để nghĩ đến vợ con _ không muốn phải mang tiếng đến gia đình.
Một chuyến đi xa thử xem. Xuống bean xe đò Q.N chúng tôi đi bộ đến ngân hàng ngay , L nói” Đến đó báo cho bà chị biết để bà về sớm lo cơm nước đống thời bạn nhìn mặt cô bé luôn” Quần áo dính bụi đường trông thật buị , cái buị của dân tác chiến , bụi một tý nhưng không đến nỗi dơ, không đến nỗi quá tệ để phải làm cho các cô bé thành phố phải sợ, chúng tôi đến ngân hàng. L chỉ tay và nói nhỏ với tôi khi vừa bước vào cửa “ Con bé đang nói chuyện với khách hàng đó, được không ? “Tôi nhìn theo tay L chỉ và gật đầu nói “ Không rõ lắm nhưng có cảm tưởng là kha khá “tôi nói khá là vì thấy dáng cô bé cao , mặt mũi bị người khách che mất . Chờ khoảng vài ba phút người khách hàng đi ra , cô bé nhìn chúng tôi nói
_ Ồ anh L ! Em tưởng là khách hàng , anh về khi nào ?
_ Vừa xuống xe chạy lại đây ngay , đây là người bạn cùng đơn vị với anh _ và, K làm việc chung với chị mình .
Tôi gật đầu chào , K mĩm cười, L nhờ K nói với bà chị là L mới về_ K chạy vào bên trong báo cho chị L biết, gặp bà L nói:
_ Đây là bạn em, tối nay tụi em ăn cơm ở nhà.
_ Chị sẽ về sớm một chút để chuẩn bị cơm, bây giờ các em đi đâu ?
_ Có lẽ lòng vòng những quán café ( L.nói )
Chúng tôi chào chị của L và K . L không quên nói : Nếu K cho phép tối nay tụi này lại nhà thăm _ Xin mời anh L và…( K. nói ) _ Ồ xin lỗi ,tôi tên Huỳnh khi nảy L quên giới thiệu tên ( tôi nói ).
Ra khỏi cửa ngân hàng L hỏi :
_ Thấy rõ mặt mày rồi , như thế nào , mấy điểm dưới con mắt của bạn ?
_ Dễ thương, một mục tiêu hấp dẫn.
_ như vậy thì cứ tấn công mình yểm trợ.
_ Trận này chắc cũng gay go như chiếm lại hai đỉnh Lôi-Giáng và Song Sữ ( tên hai ngọn đồi chiến thuật của quận Đức Dục ).
_ Thấy ớn rồi phải không ?
_ Làm sao ớn được, càng gay go càng hấp dẫn và, huy hoàng .
Cả hai chúng tôi cùng cười. Thôi gát chuyện đó lạ đến khi tối , kiếm quán café nào dễ để rữa mắt thiên hạ ( tôi nói ).
_ Ừ ! có lý, cách đây 200 mét có quán café tuyệt vời, vừa phì phèo thuốc lá vừa nhìn các nữ sinh đệ nhị cấp tan trường , tha hồ mà rữa.
Đúng như L nói, một quán café tuyệt vời ngồi nhìn ra ngả tư nhìn những giòng xe cộ, hai bean vĩa hè đông đúc của một buổi chiều tan sở, tan trường…… chúng tôi ngôì độ 10 phút, các cô nữ sinh với chiếc áo dài mini trắng đầy trên vĩa hè ngang qua góc của quán café, lính hơi bạo ,nhất là lính rừng trong cửa kính nhìn chăm chăm ra ngoài, một toán nữ sinh nhìn vào ,tinh quái vẫy tay _ tôi dợm đứng lên, các cô cười khúc khít kéo tay đi nhanh qua khỏi cửa kính. Một buôỉ chiều thật đẹp và êm ả của ngày phép đầu tiên trôi qua , hai chúng tôi lửng thửng thả bước về nhà .
Cơm nước xong vào khoảng 7giờ 30 , nữa tiếng sau L lấy Honda đèo tôi đến nhà K _ Cũng hơi hồi hộp thật , lính rừng về thành phố cũng có lúc ngô ngố. L. gỏ cửa _ K mở cửa và mời vào nhà, L hỏi thăm về mẹ K , cô bé cho biết bà đi ngủ sớm _ Nói chuyện gì đây , tôi chả chuan bị gì cả ( đó là căn bệnh của tôi ) , thôi cứ để L và K nói chuyện trước còn mình thì tuỳ hứng . L hỏi :
_ Công việc ở ngân hàng có dể chịu không K ?
_ Đại khái anh ạ! Có những lúc dể chịu, có những lúc không , giống như những đám mây ..
_ Như vậy là được rồi miễn là những đám mây đó đừng trút nước phải không cô bé ?
_ Em cũng chả biết được , chuyện trời đất mà anh .
Tôi thấy cũng hay hay , cô bé này thông minh lắm, hy vọng cuộc nói chuyện lý thú nên chen vào.
_ Giả sử như có mưa cũng tốt phải không K _ làm cho mình dể chịu hơn là cứ gầm gừ mãi, miễn là sao đừng để mình bị ướt ?
_ Cuộc sống mà anh , một vở tuồng gồm có nhiều khía cạnh .
_ Đúng như vậy K, trong đó không ít thói đời .
_ Anh có nghĩ con người dể bị thói đời xâm nhập không ?
_ Cũng dể lắm nếu chúng ta nhìn qua một lớp sương mù dù là mỏng .
_ Em đã nhìn như vậy khi bắt đầu xong trung học , em học ban B nên khi lên đại học em vào khoa học MPC( em nghĩ là phải học ở khoa học mới ngon ), thật là ê-chề không vượt qua nổi năm dự bị , đành phải mất một năm _ Sau đó vào luật , em không thấy mình vì đã nhìn qua lớp sương mù như anh nói , thói đời là đó phải không anh ? là cái tự phụ của mình . Tôi hỏi sang chuyện khác .
_ Sao K không học hết luật ?
_ Em đã ráng 3 năm , không chịu nổi khi nghĩ đến mẹ ở nhà một mình mặc dù bà còn khỏe và hơn nữa dù có xong vẫn còn thiếu , thiếu nhiều … học nữa rồi già .( K cười ). Còn anh ?
_ Chẳng ra chi , chiến tranh cứ bám sát , né tránh được mấy năm , tổng động viên, sụt 1 tuổi , bắt buộc nhập cuộc nhưng cũng hay hay , trai thời chiến, sương gió làm mình tự tin hơn . K nghĩ gì về những người lính ?
_ Thật với anh , có những lúc em không muốn nghĩ , nghĩ đến họ là nghĩ đến chiến tranh, chết chóc _ À ! những con người bị thiệt thòi nhất phải không anh ?
_ Sinh nhầm thế hệ , cũng không đúng lắm,nhìn lại lịch-sử luôn có chiến tranh đô hộ của ngoại xâm , nếu không cũng có nội chiến giữa các vua chúa tranh giành ngôi ( trong 9 thế kỷ độc lập ). Thật là phi lý nhưng rồi cũng sống trong phi lý đó. K thường làm gì vào những ngày cuối tuần ?
_ Ngoài những cái phải làm giúp mẹ như : nấu cơm, giặt giủ, nói chung là nội trợ , thì giờ còn lại em đọc sách, ở những trang sách mình cãm thấy bình an, êm đềm….
Hơn 9giờ tối tôi biết ngày mai K còn phải đi làm nên nháy L để cáo từ . L nói “ tụi này xin phép đi về để em ngủ sớm “_ “ không sao anh L ,lâu lâu anh mới về phép “ ( K nói ). Tôi gất đầu chào K và nói “ cám ơn K cho anh một buổi tối thích thú , mong gặp lại “ . Nàng cười và tiễn chúng tôi ra sân .Tôi nói với L : Cô bé thông minh nhưng hơi kiêu một chút cũng không sao , thà chết dưới tay giai nhân còn hơn được nằm trong lòng Chung Vô Diệm , chừ thì kiếm quán café để nghe nhạc , về nhà khuya có bất tiện gì không ? “_ Không gì trở ngại ,cậu về phép cở nào cũng chiều “ ( L. nói ).Quán café xinh xắn có vườn cây kiển, ánh đèn mờ mờ , ấm cúng với những giòng nhạc của Trịnh Công Sơn văng vẳng xa xa , một không khí khá tình tứ _ Tôi đang nghe nhạc tình , nhạc chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn nhưng tôi là lính ,có phải là một nghịch lý không ? nhạc phản chiến và nhạc tình của ông khó có thể rõ rệt cho một lằn ranh , tôi đang gặm nhấm từng chữ trong lời nhạc hay tôi đang suy tư về những điều T.C.S nói bằng những ngôn từ mới đầu dường như xa lạ , trừu tương , để rồi sau đó ta thấy từng lời đi vào trái tim , thật rõ ràng trong cái tình mà T.C.S muốn nói, cái tình đó là cái tình mà mỗi người chúng ta đều có nhưng không diễn tả được, “ người con gái V.N da vàng_ yêu quê hương như yêu đồng lúa chín …. “ Cũng từ trái tim đó mỗi người đã thấy biết bao nhọc nhằn , hẫm hiu… trong cuộc sống , một thân phận của những con người làm nô lệ .
“ Người nô lệ da vàng ngủ quên_ ngủ quên_ trong căn nhà nhỏ _ đèn thắp thì mờ
“ ngủ quên_ quên đã bao năm _ ngủ quên không thấy quê hương …

Từng lời nhạc đó không làm tôi mềm nhũn hay mất đi tinh thần của người lính, cái tinh thần mà nhiều người nói nghe nhạc T.C.S muốn đào ngũ “ Không, ngược lại với tất cả những ý tưởng ấy vì, những lời tình tự dân tộc vào trái tim tôi khiến tôi càng hăng say để nhập cuộc , nhập cuộc với với một tình tự của giống dân da vàng mang nhiều thương đau, không nhập cuộc với những mưu toan nhưng ước muốn cùng nhau .
“ Xin dân tộc hãy vùng lên_ Già gái trai cùng tiếp nối _ Vì quê hương không có tương lai…..”
Và , cái ngày hôm nay đây , hôm nay là bây giờ ,bây giờ là thế hệ hiện tại .
“ Hai mươi năm nội chiến từng ngày _ Gia tài của mẹ để lại cho con… một nước Việt buồn, một núi đầy mồ .Ai đã gây nên ngày hôm nay, T.C.S đứng về phía nào hay là đứng riêng một góc để nhìn chiến tranh mà nói, mà viết , mà hát v.v…. Tôi không cần để ý tới, tôi đang ngồi đây bên cốc càfé, điếu thuốc lá và bạn bè … Từng giòng nhạc chảy tới êm ái, thấm thía trong từng thớ thịt , trong từng hơi thở của tôi ( người lính chiến đấu ) và, tôi là tôi _ tôi của một thanh niên sinh ,lớn lên, trưởng thành ở Miền Nam. Trong miền Nam nhiều người dã thấy được cuộc chiến đang xảy ra , họ đã thấy rõ ràng trong lương tâm để lên án, để kết án … Trịng Công Sơn đã dùng chữ DA VÀNG để đặt tựa cho tập ca khúc của anh, DA VÀNG anh đã lặp đi lặp lại nhiều lần , có nghĩa anh muốn nói ( hay ai cũng hiểu ) là hai miền Nam_ Bắc , cảnh nhồi da xáo thịt _ một thông điệp cho những ai có những tham vọng bỉ ổi ( theo ý tôi ).Từ cái tưởng tượng chết chóc của cuộc chiến, người dân Miền nam nhìn thấy rõ ràng nhất vào tết Mậu Thân 1968 ở Huế . Cái ước mơ hòa bình của anh để thấy “Trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường ..”” không có_ mà anh vừa đi vừa hát ở Bải Dâu vào một buổi chiều “” Hát trên những xác người ““ và cũng nhìn thấy “” xác người nằm trôi sông , trên ruộng đồng, xác em bé, cụ già “” đau đớn nhất là “” xác nằm bơ vơ ““.Miên mang với những ý nghĩ về những ca khúc của T.C.S , tôi nghe L hỏi “ xong chưa ? “ Tôi nhìn thấy L cười ,có lẻ anh chàng cũng đã theo đuổi một ý nghĩ riêng , một ý nghĩ có thể đối kháng với những gì tôi đã nghĩ ?? Tôi buộc miệng nói “ Nhạc Trịnh Công Sơn là vậy ,là thế đó! về phải không anh bạn ? “ tôi nhìn đồng hồ đã gần 12 giờ khuya.

Tôi dậy trể , ngoài phòng khách L đợi tôi dậy , dậy trể cũng hơi uổng , mất đi cái lạnh lạnh buổi sáng bên vĩa hè với ly café nóng để nhìn thiên hạ qua lại. Lính về thành phố chẳng biết bao nhiêu cho vừa, biết đủ là đủ, còn một ngày nữa ! Tôi nói với L đi ăn sáng rồi chạy vòng vòng cho tôi biết thêm về Q.Ngãi , biết những đặc điểm của xứ này . Trong khi ăn sáng L nói với tôi “ Bà chị mình hỏi bạn tán K hả ! nói cho bạn biết ở đây nhiều người đang ngắm ngía cũng như tán tĩnh , giáo sư ,công chức …… K có vẻ hơi khó …

”Tôi cười _ Đó là lời cảnh báo của chị L, bà ngại cho tôi nếu không được thì cũng hơi quê một chút, vì tôi là bạn của em chị.
Chúng tôi ghé ngân hàng để chào tạm biệt K , gặp nàng _ hôm nay tôi thấy K đẹp hơn lần đầu tiên tôi đã gặp , cô nàng rất vui vẻ _ Tụi anh đến để chào K , ra đơn vị ( L nói )_ Có gấp không ? K mời hai anh vào phòng tiếp khách _ Chúng tôi theo K vào , K có nhã ý qua quán café bên cạnh gọi đem cho chúng tôi , nhưng hai đứa đã uống từ sáng sớm , chúng tôi từ chối _ năm ba điều trong những ngày nghĩ phép , ba bốn chuyện về phố phường mà nàng đang sống……… Chúng tôi thấy có một vài người khách tới và hơn nữa cũng muốn đi sớm cho kịp chuyến xe từ Đà Nẵng lên Đức Dục nên cáo từ , bước ra cửa ,tôi quay lại nói : Cám ơn K tụi anh( xưng cho lịch sự chứ chỉ có mình tôi ) có vài ngày phép thật ý nghĩa_ nàng cười và vẫy tay.
Khoảng chừng mười ngày sau có chuyến tiếp tế định kỳ từ hậu cứ lên vùng hành quân , tôi nhận được một bao thư nhỏ của K, vội mở ra xem, không phải thư nó là một bản nhạc “ Mùa đông của anh “ K không viết một chữ nào cả , nàng chỉ gạch đít một vài câu trong bản nhạc như: “ Ta yêu nhau một ngày rồi xa nhau trọn kiếp và “ Trời lập đông chưa anh cho lũ dơi đi tìm….” Thật ra tôi không hiểu nàng muốn nói gì qua ca khúc này cũng như những câu gạch đít , dù sao tôi cũng vui , vui vì biết chắc chắn cô bé có nghĩ đến mình . Tôi gọi máy qua L , báo cho anh chàng biết , biết để cùng nhau “ bàn đề” cho vui _ một phần nào ấm lòng trong mùa đông ở trên núi .Tôi viết thư cám ơn K .
L về phép _ tôi xuống bộ chỉ huy tiểu đoàn để gặp L nhắn vái lời cho K , tại đây tôi thấy mấy người lính lấy vỏ M72 làm những chiếc vòng đeo tay rất đẹp , tôi hỏi xin một chiếc vòng và bảo người lính khắc trên chiếc vòng một ngôi nhà và đề chữ “bank” cùng tên của nàng , cũng hay hay , quà của người lính tác chiến, của người lính quanh năm ở rừng , tôi đưa L để đem về tặng K và bảo L nói chiếc vòng này do tự tay tôi làm gởi nàng , có như vậy nàng mới thấy quí , tôi cũng dặn L hỏi cô nàng _ Tại sao gởi bản nhạc đó , gạch đít những câu đó có ý nghĩa gì ? L đi được hai ngày , chiến trường sôi động lại , tôi trông L trở lại còn hơn tiểu đoàn trưởng nữa , bốn ngày phép của L sao mà lâu thế , đúng là thời gian tâm lý , trông L để thử K nói những gì ? có những dấu hiệu nào thêm để có hy vọng ? ……… Rồi cũng đến lúc anh chàng “ chim xanh” của tôi trở lại đơn vị , qua chiếc PRC 25 “ ê ông bạn ! nàng ta không nói gì nhiều, thứ nhất : Khen ông bạn khéo tay, chiếc vòng rất đẹp _ thứ hai trả lời những thắc mắc của bạn về bản nhạc “ Mùa đông của anh “ nàng kể : Một hôm đi làm về ,trời bỗng đổ mưa K tạt vào trúng một quán sách , bỗng dưng nhớ tới ảnh và là mùa đông nữa nên mua gởi , không gì cả , cái gì dể thương thì thích “ nàng không nói gì nữa , mình cũng không hỏi gì thêm , cứ để nguyên tình trạng như vậy cho nó đẹp. Tôi nói : Thật là ẩm ờ, ẩm ờ như bản nhạc và những câu nàng hightline , nhưng dù sao nàng cũng nghĩ đến mình , ít nhiều nàng cũng đã loại những tên công chức, thầy giáo đang bám riết nàng hàng ngày như chị bạn đã cho biết .

Tháng năm cứ trôi , trôi chậm chậm ( đối với tôi lúc này ) và, có vẻ hờ hững nữa , tôi nóng lòng với những lá thư từ vùng đất đầy mùi thuốc súng, tôi viết với những cãm xúc của tôi, nàng có một cái gì đã lôi cuốn tôi, không như những cô bé khác mà tôi đã quen, đã là bạn mà tôi gọi là “ những mối tình vất vưỡng “ với nàng tôi lại đang “ vất vưỡng” theo đuổi nhưng, không phải vì thế mà tôi hối hả bằng những lá thư tán tụng nàng một cách “ cải lương “ nàng hơi cao ngạo , tôi muốn thành công thì phải chận đứng sự cao ngạo đó cũng như làm sao để cho nàng biết về Nhân sinh quan của mình .
Đúng như vậy ! Tôi tấn công nàng không phải bằng những lời tỏ tình ong bướm, văn chương lưu-loát …. Tôi tấn công nàng bằng về những điều tôi đang nghĩ tới , bằng những cái xảy ra trong cuộc sống , bằng mớ hành trang tôi đã có …. Tôi đã viết cho nàng với những lời rất ngắn
“K ! Trước hết chúc bác và K được bình an . Hôm qua đơn vị anh bắt được một anh thương binh V.C ( anh ta bị thương ở chân) _ khuôn mặt còn non choẹt , anh ta cho biết mới có 18 tuổi vừa học xong lớp 10 .Khi trả lời những câu hỏi của anh , người tù binh rất sợ sệt , anh bảo người lính pha cho anh ta một ly cà-phê và cho một điếu thuốc . Hắn nhìn anh và khẻ hỏi
_ Anh là cấp chỉ huy ? anh gật đầu .Hắn nói tiếp : Tất cả đều nói láo , chúng tôi bị lừa , những người thanh niên miền Bắc bị lừa , họ bảo các anh tàn nhẫn , hung ác , ăn thịt người….Không ! các anh hiền quá, các anh không cóthù hận , các anh đang đối xử đúng tình người mà chúng em chưa bao giờ gặp trước đây … Nướùc mắt của hắn chảy dài trên má , trong cơn xúc động người tù binh không nói gì được nữa . Anh đưa bắt tay hắn và nói :
_ Bạn may mắn hơn những bạn bè của bạn đang cầm súng ở trong rừng , vết thương sẽ được chữa lành và được TỰ_DO _anh ta hiểu lầm hai chữ TỰ-DO có nghĩa là được thả ra về lại với đơn vị cũ nên nói :
_Cho em xin ở lại Miền Nam với các anh .
_ TỰ-DO có nghĩa đời sống bạn thoát khỏi chế độ Cộng Sản
Người tù binh mừng rỡ nói.
_ Cám ơn anh!
Như vậy đó K, anh quay lại làm nhiệm vụ của mình , anh không dám nói tiếp những gì của chiến tranh với anh ta “
Và một thư khác tôi viết <> K cũng gởi đến cho tôi những giòng chữ êm đềm trong ước muốn của nàng “chiến tranh chấm dứt” . Thư qua lại đã ba tháng , tôi có phép ba ngày _ một ngày cho gia đình và hai ngày gặp K. Hai ngày thật thú vị ,lần đầu tiên K nhận lời đi uống ca-phê với tôi , nhờ đi với L tôi biết được quán ca-phê xinh xắn có những bản nhạc hay , những tình khúc Lê Uyên và Phương . K uống chanh đường còn tôi tách cà-phê sữa , chúng tôi đang nghe nhạc phẩm “Vũng lầy của chúng ta “ Tôi rất thích nhạc Lê-Uyêân và Phương, một tình yêu nhẹ nhàng nhưng say đắm , tình yêu từ trái tim chân thật ,say mê như Lê-Uyên Phương hát với cây đàn thùng :
“ theo em xuống phố trưa nay đang còn ngất ngất cơn say……
“Cho nhau hết những mê say , cho nhau hết những chua cay..
Tôi hỏi : K nghĩ gì về những giòng nhạc đó .?
_ Eâm đềm và thành thật .
_ và bây giờ nếu anh nói với K …..
_ Anh cứ nói .
_ Anh yêu K ? em sẽ trả lời ?
_ Không .Anh cứ nói tiếp .
_ Buồn ơi! Ta xin chào mi ….Nếu trên đường đời ta lẻ loi thì trên con đường tình ta có mi…
_ Nếu em trả lời có ?
_ Em có nghe mùa Thu mưa bay gió nhẹ.Em có nghe nai vàng hát khúc yêu đương …
Cả hai cùng cười , tôi nâng ly cà-phê cụng vào ly chanh của K và nói “chúc mừng cho chúng ta”.
Một buổi tối thật đẹp, thật êm-ả của một đôi tình nhân mới yêu nhau bằng những giòng nhạc Lê-Uyên&Phương và, bây giờ tôi đã thực sự “đưa em xuống phố….”
Còn một ngày phép với K, chúng tôi ngồi bên nhau để nói chuyện về tương lai, về quan niệm sống ,về những thói đời cần nên tránh. Chúng tôi cũng đề cập tới cái đẹp, cái hồn nhiên, say đắm của tình yêu .Tôi kể cho nàng nghe về sự tích hoa forget me not tên Việt-Nam là Lưu-ly-Thảo , kể xong nàng nói:
_ Vì tình yêu mà hy sinh tất cả phải không anh.Chắc không gì cao cả hơn tình yêu?
_ Vâng, tất cả đều cần tình yêu để được hy-sinh cho nhau.
_ Đúng ! em rất đồng ý với anh khi anh dùng chữ “ được”. “Được” anh ạ! Chứ không là “Phải ” như một số người đã nói(nàng ngưng một lúc rồi nói tiếp ) Chẳng ai kéo lại được thời gian , ngày mai anh về đơn vị ….
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
Những lá thư ít chữ nhưng đầy đủ ý nghĩa của tôi lẫn K cứ đều đặn cho nhau , bỗng dưng có một thư hơi khác lạ của K.
<>
Tôi không đoán được những gì đã xảy đến với nàng , sự thật tôi chưa hiểu K nhiều , có một điều là K có lập trường và hướng đi rõ ràng .Hai tuần nữa đơn vị sẽ về hấp” , tôi có dịp thăm nàng.
Tôi về thẳng nhà K .Một buổi trưa nóng bức , nàng đang nằm vỏng ngoài vườn đọc sách. Thấy tôi nàng rất vui , tôi nhìn nàng chẳng có gì thay đổi về hình thức ..
_ Em có cảm tưởng là anh đang nóng ruột để biết tại sao em lại có quyết định như vậy ?
_ Anh cũng đã có một vài câu trả lời nhưng , thật khó chính xác ….
_ Em đọc được ý nghĩ đó trong anh , thôi ! Anh vào chào mẹ và chúng ta đi một vòng quanh phố , tìm một quán cà-phê nghe nhạc , nghe nhạc buổi trưa cũng lý thú lắm không kém gì ban đêm , chắc anh cũng cần rữa đầu óc sau những trận đọ súng . . …. Anh có cần nghĩ một tý không ?
_ Anh có bốn ngày nghĩ chứ không phải 24 giờ như những lần trước .

CẪM lONG